Quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc trở thành di sản văn hóa thế giới

21:30 12/07/2025

Vào lúc 13 giờ trưa 12/7 (giờ Paris), khoảng 18 giờ Việt Nam, tại Kỳ họp lần thứ 47 diễn ra tại thủ đô Paris (Pháp), Ủy ban Di sản Thế giới (UNESCO) đã xem xét và thông qua đề cử Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Côn Sơn Kiếp Bạc, Vĩnh Nghiêm là Di sản Thế giới.

Với kết quả này, thành phố Hải Phòng hiện có 2 di sản thế giới liên vùng gồm Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long - quần đảo Cát Bà và Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc.

Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc  nằm trên địa bàn 3 tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh gồm 12 điểm di tích, trong đó thành phố Hải Phòng gồm 5 điểm: chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, chùa Thanh Mai, động Kính Chủ, chùa Nhẫm Dương; tỉnh Quảng Ninh gồm 5 điểm: Thái Miếu, chùa Lân, chùa Hoa Yên, chùa Ngọa Vân, bãi cọc Yên Giang; tỉnh Bắc Ninh gồm 2 điểm: chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà.

Quang cảnh Kỳ họp lần thứ 47 của ở thủ đô Paris (Pháp) 

Trong đó 5 điểm di tích trên địa bàn thành phố Hải Phòng là những di tích lịch sử, danh thắng tiêu biểu, đang bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc không chỉ của Việt Nam mà còn mang giá trị nổi bật toàn cầu, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí 3 và 6 để ghi danh Di sản thế giới.

Đoàn công tác của Việt Nam tham dự Kỳ họp lần thứ 47 của Ủy ban Di sản thế giới tại Pháp

Chùa Côn Sơn (tên chữ Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự, tục gọi là chùa Hun), nằm trên địa bàn phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng. Chùa khởi dựng từ thời Đinh - Tiền Lê (thế kỷ 10 -11).

Thời Trần, chùa là một trong ba trung tâm nổi tiếng nhất của Phật giáo Trúc Lâm, cả ba vị Tam Tổ Trúc Lâm đều đã từng tu hành, thuyết pháp tại đây. Chùa được Đệ Nhị Tổ Pháp Loa tôn tạo, mở rộng năm 1329 với nhiều hạng mục công trình từ chân lên đến đỉnh núi Côn Sơn. Chùa cũng là nơi trụ trì lúc cuối đời của Đệ Tam Tổ Huyền Quang tôn giả.

Chùa Côn Sơn còn lưu giữ được nhiều dấu ấn kiến trúc các thế kỷ 14, 17-19 cùng nhiều cổ vật như Đăng Minh bảo tháp, bia đá, tượng thờ, văn bia thế kỷ 14 đến 18.., với 16 tấm bia đá ghi lại đầy đủ quá trình lịch sử của chùa. Các bia “Thanh Hư Động” - bút tích của vua Trần Nghệ Tông, tạo tác niên hiệu Long Khánh (1372-1377), bia “Côn Sơn Tư Phúc tự bi” tạo tác năm Hoằng Định thứ 8 (1607) và bộ tượng Tam Thế Phật (thế kỷ 17) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia.

Tam quan chùa Côn Sơn

Kết quả khai quật khảo cổ học các năm 1979, 2000, 2005, 2012, 2014 cho thấy cả một hệ thống di vật từ thời Trần đến thời Nguyễn tại chùa Côn Sơn. Dấu tích thời Trần được bảo lưu tại nhiều hạng mục như Thượng điện, vườn tháp, Tổ đường,  nền móng Cửu Phẩm Liên Hoa được Đệ Tam Tổ Huyền Quang kiến tạo.

Các thời Lê sơ, Mạc tiếp theo dấu tích chủ yếu là di vật sinh hoạt hàng ngày hoặc gạch ngói tu bổ, nhưng cho đến thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn thì mặt bằng di tích vẫn tiếp nối thời Trần, bởi ngay trên nền di tích Cửu Phẩm Liên Hoa thời Trần là dấu tích Cửu Phẩm Liên Hoa của các thời kỳ sau này, cùng hai cụm kiến trúc nổi bật là chùa chính và Tổ đường.

Chùa Côn Sơn còn một số đền thờ các danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Đán, cùng với Bàn Cờ Tiên, suối Côn Sơn, Ngũ Nhạc linh từ... hợp thành một quần thể di tích, danh thắng nổi tiếng. Các di tích, danh thắng này đều tọa lạc ở những vị trí đắc địa - hậu chẩm tựa vào tổ sơn Ngũ Nhạc, hai bên tỳ vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân tạo thế tả thanh long, hữu bạch hổ, Minh đường nhìn ra hồ Côn Sơn, tiền án là dãy núi An Lạc...

Lễ hội chùa Côn Sơn, được tổ chức trong các ngày 16 - 23 tháng Giêng âm lịch và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân để tưởng niệm ngày viên tịch của Đệ Tam Tổ Huyền Quang tôn giả với nhiều nghi lễ và diễn xướng mang đậm tinh thần Phật giáo. Năm 2012, Lễ hội chùa Côn Sơn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Toàn cảnh động Kính Chủ

Đền Kiếp Bạc nằm trên địa bàn phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Phòng, thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300) - anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự, một trong những danh nhân lịch sử được người Việt tôn làm Thánh. Sau cuộc kháng chiến chống đế chế Mông Cổ lần thứ nhất (1258), Hưng Đạo Đại Vương đã chọn Vạn Kiếp lập đại bản doanh, xây dựng phòng tuyến quân sự vùng Đông Bắc.

Tại đây, Ngài đã viết những tác phẩm bất hủ như ‘‘Vạn Kiếp tông bí truyền thư’’, “Hịch tướng sĩ văn”,... hoạch định chiến lược, sách lược quân sự. Ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ 8 (1300), Hưng Đạo Đại Vương qua đời tại tư dinh. Vua Trần sắc chỉ cho nhân dân lập đền thờ, nay là đền Kiếp Bạc.

Đền Kiếp Bạc được xây cất ở nơi vốn là phủ đệ, thái ấp, nơi Hưng Đạo Đại Vương huấn luyện quân sỹ. Đền là đại diện tiêu biểu của Đạo giáo Đại Việt, đồng thời cũng thể hiện sự đồng hành với Phật giáo, Nho giáo và tín ngưỡng bản địa thời bấy giờ. Đây là vị trí đắc địa về phong thuỷ, hình thế hiểm yếu, tứ linh quần tụ, chung đúc khí thiêng..., là đầu mối huyết mạch giao thông thuỷ bộ trấn giữ cửa ngõ phía Đông kinh thành Thăng Long xưa, có tầm quan trọng an ninh, quốc phòng bậc nhất của Đại Việt.

Chính vì vậy, Hưng Đạo Đại Vương đã xây dựng nơi đây thành một căn cứ quân sự, một quân cảng lớn nhất Đại Việt. Sau khi Ngài mất, các triều đại đương thời và tiếp nối đều cùng nhân dân tôn vinh, thờ cúng. Dần dần đền Kiếp Bạc trở thành một trung tâm tín ngưỡng linh thiêng bậc nhất của đất nước.

Chùa Nhẫm Dương

Hệ thống các công trình kiến trúc ở đền Kiếp Bạc đã được tu bổ nhiều lần qua các thời Trần, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng. Thời Nguyễn, việc trùng tu diễn ra liên tục và đều được văn bia tại đền ghi lại, phần lớn còn nguyên gốc, được xây dựng tuân thủ nguyên tắc âm dương, ngũ hành.

Từ núi Trán Rồng (tượng dương), các công trình kiến trúc phát triển ra sông Lục Đầu (tượng âm), đền Kiếp Bạc ở trung tâm, bên tả có đền - chùa Nam Tào, bên hữu có đền - chùa Bắc Đẩu... Phủ đệ và cũng là căn cứ luyện thủy binh của Hưng Đạo Đại Vương trước đây nằm ở phía sau núi, bên dòng sông Vang chảy từ núi Huyền Đinh xuống đổ ra Lục Đầu Giang.

Toàn bộ các kiến trúc của đền Kiếp Bạc hiện nay nằm chồng lên nhiều lớp văn hoá của các kiến trúc thuộc ngôi đền xưa hơn và phủ đệ của Trần Hưng Đạo.

Đặc biệt, phía sau đền Kiếp Bạc, năm 1972 khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích nền nhà của Trần Hưng Đạo, minh chứng cho ghi chép của chính sử rằng đền thờ được xây dựng ngay trên nền nhà cũ của Ngài sau khi Ngài từ trần. Các dấu tích khảo cổ học minh chứng lịch sử ngôi đền bắt đầu từ thời Trần, qua thời Lê đến đầu thời Nguyễn. 

Tại đền Kiếp Bạc ngày nay, nhân dân trong vùng vẫn giữ gìn nguyên vẹn ngày giỗ và mở lễ hội với nhiều hoạt động tôn vinh Đức Thánh Trần như: Lễ khai hội, Lễ tưởng niệm, diễn xướng hầu Thánh, Lễ khai ấn, Lễ rước bộ và hội quân trên sông Lục Đầu, Lễ cầu an và hội hoa đăng. Lễ hội đền Kiếp Bạc ngày 20/8 từ xưa luôn được ghi trong điển lễ quốc gia, được tổ chức trọng thể và kéo dài nhiều ngày. Năm 2012, Lễ hội đền Kiếp Bạc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Chùa Thanh Mai nằm trên địa bàn phường Trần Nhân Tông, thành phố Hải Phòng được khởi dựng dưới thời Trần trên núi Phật Tích (còn gọi là núi Tam Ban), sau được Thiền sư Pháp Loa mở rộng vào khoảng năm 1329, từ đó trở thành một đại danh lam gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Ngài cũng như vị Đệ Tam Tổ kế tiếp là Thiền sư Huyền Quang.

Toàn cảnh chùa Thanh Mai
Thời Lê Trung Hưng, khoảng năm 1605-1607, chùa được trùng tu, cấu trúc gần như chùa Hồ Thiên (Quảng Ninh). Chùa thời Lê Trung Hưng sau đó cũng bị hủy hoại, được dựng lại vào năm 2009 với các thành phần kiến trúc được phục dựng theo văn bia thời Lê Trung Hưng. Chùa còn giữ được nhiều cổ vật nguyên gốc như mộ tháp, bia đá, tiêu biểu có 8 tháp đá thời Hậu Lê (Viên Thông bảo tháp nơi đặt xá lỵ Thiền sư Pháp Loa được dựng năm 1334, trùng tu năm 1717; Tháp Phổ Quang dựng năm 1702; Tháp Linh Quang dựng năm 1703...), 10 văn bia niên đại thời Trần đến Hậu Lê...

Phía sau chùa Thanh Mai hiện nay có đường mòn dẫn lên đỉnh núi Phật Tích, trên có dấu tích của một số di tích cổ khác, được gọi là Thanh Mai 2, 3, 4... Di tích Thanh Mai 2 được khai quật khảo cổ học năm 2021 đã phát hiện 3 lớp kiến trúc của 3 thời kỳ chồng lên nhau, cho thấy chùa Thanh Mai phát triển liên tục trong cả 3 thời kỳ Trần, Lê Trung Hưng và Nguyễn, đặc biệt là kiến trúc thời Nguyễn được làm khá cẩn thận, quy mô, chứng tỏ sự phát triển bền vững của Phật giáo Trúc Lâm dưới thời Nguyễn tại đây.

Bia “Thanh Mai Viên Thông tháp bi”, ghi chép lại toàn bộ lịch sử Phật giáo Trúc Lâm, được Đệ tam Tổ Huyền Quang hiệu đính, khắc năm 1362, được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2016 cho biết Thiền sư Pháp Loa là người xây dựng, trụ trì, mở mang phong cảnh, đúc tượng Quan Âm, đào tạo tăng đồ. Trên bia khắc bài thơ “Vãn Pháp Loa tôn giả đề Thanh Mai tự” của vua Trần Minh Tông.

Chùa Nhẫm Dương nằm trên địa bàn phường Nhị Chiểu, thành phố Hải Phòng, được khởi dựng thời Trần với tên gọi Thánh Quang tự, thuộc Thiền phái Trúc Lâm, từ thế kỷ 17 chùa trở thành chốn tổ phái Tào Động Việt Nam do Thiền sư Thủy Nguyệt trụ trì.

Chùa Nhẫm Dương gồm có Phật điện, nhà Tổ, các hang Tĩnh Niệm và Thánh Hóa, hai ngôi mộ tháp của Đệ Nhất Tổ Thủy Nguyệt thiền sư (Viên Quang Bảo Tháp, 1704) và Đệ Nhị Tổ Tông Diễn thiền sư (Diệu Quang Bảo Tháp, 1709).

Nghi môn đền Kiếp Bạc
Nổi bật nhất trong số các hang động ở chùa Nhẫm Dương là động Thánh Hóa, nơi Đệ Nhất Tổ Thủy Nguyệt viên tịch. Đây cũng là nơi có tầng văn hóa cổ sinh - khảo cổ học dày tới 4m, trong đó đã tìm thấy xương răng của nhiều giống loài động vật cổ sinh như tê giác, voi châu Á, nai, lợn rừng, nhím, gấu..., đặc biệt là đười ươi (Pongo) có niên đại 3-5 vạn năm cách ngày nay, rất nhiều di vật khảo cổ nhiều thời kỳ từ Đông Sơn, Đông Hán đến Đinh - Tiền Lê, Lý - Trần, Lê sơ - Mạc - Lê Trung Hưng - Hậu Lê, Nguyễn... Bộ sưu tập các di vật khảo cổ ở chùa Nhẫm Dương góp phần khẳng định truyền thống định cư, sinh hoạt, giao thương... liên tục của người tiền sử xưa và người Việt trong lịch sử cận và hiện đại ở khu vực chùa Nhẫm Dương nói riêng, vùng cửa sông Bạch Đằng và rộng hơn nữa là dãy núi Yên Tử và vùng phụ cận.

Động Kính Chủ nằm trên núi Dương Nham, thuộc thôn Dương Nham, phường Phạm Sư Mạnh, thành phố Hải Phòng.  Núi Dương Nham còn có tên là Bổ Đà, Xuyến Châu, Thạch Môn sơn. Động Kính Chủ là một trong nhiều hang động tự nhiên hình thành trong lòng khối đá vôi Dương Nham,  đã được con người sử dụng từ xa xưa. Vua Lý Thần Tông (1116-1138) khi đến thăm động đã ban tặng hai chữ “Kính Chủ”, từ đó mà thành tên. Động được người xưa xưng tụng là “Nam Thiên đệ lục động”.

Cửa động Kính Chủ rộng hàng trăm m2, nền động cao khoảng 20m, trong động có chùa cổ Dương Nham các ban thờ vua Lý Thần Tông, Huyền Quang tôn giả và tín ngưỡng bản địa. Đặc biệt, trên các vách đá và trần hang còn có một hệ thống trên 50 bia ma nhai của các danh nhân văn hoá lớn của Việt Nam các thời kỳ ca ngợi cảnh trí thiên nhiên của núi Dương Nham, động Kính Chủ.

Trong đó có 2 tấm bia thời Trần gồm bia khắc bài thơ “Hành dịch đăng gia sơn” và bia khắc 4 chữ lớn: “Vân Thạch Thư thất” của Phạm Sư Mạnh (1300-1384) - một vị quan và nhà thơ thời Trần, quê ở Kính Chủ - đã được khắc lên vách núi năm 1368, mô tả quang cảnh hào hùng tại đại bản doanh của hai vua Trần và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo ở động Kính Chủ khi chuẩn bị cho chiến trận Bạch Đằng năm 1288. Hệ thống bia ma nhai động Kính Chủ đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2017.

Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới theo các tiêu chí (iii) và (vi), là bằng chứng cho sự kết hợp độc đáo giữa nhà nước, tôn giáo và nhân dân trong việc hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam; cùng cảnh quan linh thiêng được hình thành thông qua mối tương tác thường xuyên, mật thiết với thiên nhiên và một hệ thống đạo đức dựa trên lòng yêu chuộng hòa bình, tu dưỡng bản thân, lòng khoan dung, nhân ái và sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên…

Với 12 cụm, điểm di tích, quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc thể hiện đầy đủ truyền thống Phật giáo Trúc Lâm, từ việc thành lập tại vùng núi thiêng Núi Yên Tử được chứng minh trong các đền cổ, am, tháp, di tích khảo cổ, đến di tích Chùa Vĩnh Nghiêm và Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc và sự hệ thống hóa các triết lý thể hiện qua các văn bia, di vật liên quan và thực hành nghi lễ.

Các di tích này cung cấp đầy đủ đại diện về lịch sử, tinh thần và địa lý của Phật giáo Thiền Trúc Lâm, thể hiện quá trình hình thành, phát triển, mối quan hệ bền vững của các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu trong các không gian lịch sử, văn hóa.

VŨ DUYÊN

Từ khóa:
Bình luận của bạn về bài viết...

captcha

Bản tin Pháp luật

Video clip

Phóng sự ảnh

An toàn giao thông